Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

VIẾT MỘT LẦN CUỐI CHO NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM

Mỗi lần đến ngày này thì điện thoại di động của mình cứ réo lên những tin nhắn với những lời chúc tụng đầy tình người. Hoa tặng cũng là chuyện thường tình. Mình quý mến tất cả những tấm lòng đã còn nhớ đến mình, mặc dù mình không còn dây với hủi tới nay đã đúng 10 năm.

Mình bảo hủi vì tới ngày này hằng năm nó cứ làm mình nổi gai ốc khắp người để nhớ lại cảnh ngày xưa chứng kiến thầy thuốc vừa làm cò, vừa làm con buôn trong môi trường bệnh viện công như một lũ hủi. Soi đèn tìm kiếm mãi mới thấy còn sót vài người không là  hủi.

Mà có lẽ, tất cả mọi nơi nào trong môi trường công đều là như vậy cả, khi sờ tới đâu cũng thấy toàn hủi. Dựa vào ngày thầy thuốc mà để lên án cái ngày này thì cũng tội cho nó. Nguyên nhân vì đâu?

Có lẽ, một câu nói của người bạn sáng nay mail cho mình là đúng: "Người ta sinh ra những cái Mỹ để Mị nhau". 

Cứ mỗi thời đại, các chính khách lại nghĩ ra những "ngày làm trò" để mị nhau, làm khổ nhau. Ngồi tính lại, ở nước ta, ngày nay có 8000 ngày lễ hội rập rình trong chỉ 1 năm có 365 ngày! Cứ mỗi lễ hội lớn được thực thi, thì đồng tiền lại mất giá và dân chúng lại khổ hơn vì lạm phát.

Cứ phải làm khổ nhau làm gì khi đến ngày này lại phải có những người bệnh khệ nệ mang hoa đến chúc nhau những lời tri ân, mà chưa chắc lòng đã thoả.

Đừng làm khổ nhau nữa vì những cái ngày chẳng ra chi. Viết ra điều này thì quá cực đoan, nhưng không có nó có lẽ hay hơn là có nó, mà người bệnh vẫn còn nằm đôi, nằm ba và thảm cảnh thầy thuốc vừa làm con buôn phe phẩy, mà không phải là người lo thể xác và tâm hồn của người bệnh như tôn chỉ của nó. Nguyên nhân cũng không phải vì họ, mà vì đâu?

Thôi thì cũng viết vài dòng, để thông báo với các bạn gần xa có biết về mình, kể từ hôm nay, không nên chúc mình vào cái ngày mà trong bộ nhớ của mình đã không còn có nó từ lâu. Chúng ta thà nghĩ và hành động cho nhau như những người lương thiện, hơn là những điều phù phiếm hảo với nhau. Mình sẽ không viết cho ngày này nữa, chỉ đến khi nào ngành y tế Việt Nam có được sự đàng hoàng và tốt đẹp với nhiệm vụ thiêng liêng của nó.

Asia Clinic, 9h55', ngày Chúa Nhật, 27/02/2011

Làm ăn kém nên nghèo , bởi nghèo nên xấu tính

Chúng ta nghèo do quản lý yếu kém, tham nhũng đã rõ. Nguyên nhân đã được phân tích trên nhiều nguồn khác nhau, từ chính thống đến phi chính thống, nhưng có lẽ bài viết sau đã nêu thêm một nguyên nhân: tính xấu cố hữu của người Việt. Đã là bản tính cố hữu thì từ quan chí dân ai cũng mắc phải. Những ông quan thời nay không phải do thi thố tài năng để có được chức tước nên không tránh được cái tính xấu của người thường. Có lẽ vì vậy nên chỉ đạo hệt như một anh nông dân với mớ kiến thức vô dụng của thời chủ nghĩa xã hội. Nói vô dụng ở đây vì bây giờ là thời hội nhập và toàn cầu hoá, anh không thể mang kiểu quản lý ra lệnh, bắt ép như trước. Có thể ra lệnh cho dân trong nước những không thể ra lệnh cho quốc tế. Mà ra lệnh trong nước nhiều khi cũng chẳng nổi. Lạm phát, giá cả tăng vùn vụt. Họp hành, ra lệnh đâu có ăn thua. Vừa bàn xong “7 nhóm giải pháp, biện pháp” chi đó lập tức giá lên ào ào như một sự mỉa mai.
Chừng nào những người quản lý nhà nước chưa thấm được nỗi khổ do tính xấu của dân tộc mà chỉ thấy tự hào chừng đó nước ta còn khổ.
Sau đây là nội dung bài viết.


Làm ăn kém nên nghèo , bởi nghèo nên xấu tính


Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật thích viết rằng  những người làm tranh Đông Hồ chỉ là những người nông dân lúc rỗi rãi thì vẽ thêm tranh. Mục dích của họ cốt cho người ta thấy nghệ thuật ở VN “ gắn liền với đời sống “. Có biết đâu làm thế chỉ là một cách tốt nhất để phô ra một sự thật  :trong xã hội VN, trình độ sống và làm việc là thiếu chuyên nghiệp. Không sớm có sự phân công lao động.Con người nhởn nhơ dông dài ngay trong sự chăm chỉ của mình .
Tình trạng của nghề làm tranh cũng là tình trạng của nghề dệt, nghề đúc đồng,nghề làm muối, nghề làm đồ gốm, cả nghề làm ruộng… Chỗ nào người ta cũng thấy sự ngưng trệ. Kỹ thuật cổ lỗ. Năng suất thấp.
“ Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc “. Trong lời thuyết minh viết cho phim  Cây tre Việt Nam 1955, Thép Mới từng viết một câu văn xuôi mang đầy chất thơ để hằn sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ học sinh tiểu học như vậy. Vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, nó gợi một cảm giác về sự nhẫn nại bất khuất kiên cường. Nhưng sang đến thế kỷ XXI này đọc lại thấy dấu hiệu của một cuộc sống ù lì tăm tối .
Người Việt tự nhủ Đói cho sạch rách cho thơm. Ảo tưởng nhắc lại mãi nghe như có lý. Song khi người ta quá nghèo thì khó lòng giữ được sự tử tế. Chính nhiều người từ xa tới đến đây cũng sớm hiểu điều đó.
Trong cuốn Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài 1688,(bản của NXB Thế giới, 2006) một nhà thám hiểm người Anh là  W.Dampirer ghi lại một nhận xét chung: “Cư dân ở đây rất lễ độ và thật thà với người nước ngoài, nhất là những người đến giao dịch và buôn bán. Những kẻ quyền quý thì tỏ ra kiêu căng, hách dịch và tham lam trong khi đám lính tráng  thì hỗn xược.”
Rồi ông ghi thêm “ Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp làm cho nhà buôn  và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về đêm “.
Điều đáng nói là  W.Dampirer đã có cách riêng để giải thích hiện tượng này. Trước đó nhà cửa người Việt ngay ở Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà  nhỏ và thấp. Mấy tấm phên che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí. Theo W.Dampirer, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường khoét ngách.
Khó lòng kể hết những dấu ấn mà sự thấp kém về trình độ sản xuất để lại trong tính cách người Việt.
Trước tiên là một tâm lý tự ti mệt mỏi không thấy hứng thú trong lao động.
Đã nhiều người gặp nhau ở nhận xét là người Việt rất chăm chỉ năng động. Nguyễn Văn Vĩnh tỏ ra tinh nhạy hơn người khi nêu cùng lúc cái tình trạng nước đôi : người Việt vừa cần cù , vừa cho người ta cảm thấy họ coi lao động là bất đắc dĩ, chẳng qua không có cách nào khác nên phải chân lấm tay bùn vậy.
Xã hội thiếu đi sự năng động tìm tòi.
Nhà nho xưa nhiều người kiêm cả thày lang. Trong một lần so sánh văn hóa Trung quốc và VN, Phan Ngọc nhắc lại cái ý mà nhiều thế hệ nho sĩ truyền miệng với nhau. Đó là một nhận xét của người Tàu: người Việt sống trên cả đống  nguyên liệu dùng làm cây thuốc nhưng vẫn chết vì thiếu thuốc .
“Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không thích “–  thái độ người mình với công việc được Nguyễn Tất Thịnh cô lại trong  một nhận xét thật gọn ghẽ ( Tiền phong,6-10-06).
Nhiều nhân vật trong những truyện cười dân gian là những chàng lười. Ca dao hóm hỉnh dựng lại một  chân dung, ngày nay ta tưởng là bịa, song thực ra rất sẵn trong nông thôn VN thời trung đại : “ Con có đậu cọc cầu ao / Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng /  Chú tôi tốt tóc đen răng / Hay ăn làm biếng hay nằm ngủ trưa / Ngày thì ngóng những ngày mưa / Đêm thì ngóng những đêm thừa trống canh ”.
Vốn rất thông minh nhạy cảm nên không phải là người Việt không biết thực trạng kém cỏi trong làm ăn sản xuất của mình. Nhưng do thiếu sự mở đường của trí tuệ nên người ta cảm thấy đó là cả một định mệnh. Thấy  của thiên hạ cái gì cũng hơn mình. Bất lực.Cay đắng. Chán chường.
Một niềm tự ti nằm rất sâu trong tâm lý, mang lại nhiều biến thái : lo học nhưng chỉ học mót học lỏm ;  sợ người ta  coi thường nên phải tìm cách nhấn mạnh cái riêng , và nhắc đi nhắc lại rằng mình chẳng kém gì mọi người. Sống gồng lên ra vẻ thế nọ thế kia, sẵn sàng giả dối cốt sao khỏi bị mất mặt.
W.Dampier, trong cuốn sách của mình, còn ghi nhận một điều mà sau này các nhà nghiên cứu văn hóa VN từ Phan Kế Bính Đào Duy Anh tới Nguyễn Văn Huyên Lương Đức Thiệp đều chia sẻ, là thói máu mê cờ bạc của người Việt. Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn,–khi rỗi rãi người ta lao đầu vào cuộc đỏ đen một phần là vì bế tắc trong cuộc sống. Toan tính duy nhất ở đây là ngẫu nhiên tìm được một cơ may giữa đời sống tuyệt vọng.
Vương Trí Nhàn